Thơ Trần Thiện Chánh Trần_Thiện_Chánh

Giới thiệu hai trong số bài thơ tiêu biểu của ông:

Phiên âm Hán-Việt:

Hạc quan loạn hậuTự cổ đa tài thị hoạ côn (căn)Hạc quan quá xứ ám tiêu hồnTịch gian ca vũ lai thương kiếmKhôi lý lâu đài ngoạ tử tônNha tháo hàn vân di bạch trúMã tê thu thảo nhập hoàng hônThôn cơ loạn hậu vô nhan sắcToạ khiếp sài lang bán yểm môn. Dịch nghĩa:Tuần Hạc sau loạnTừ xưa nhiều của cải vẫn là gốc tai vạ,Qua nơi Tuần Hạc thầm thấy bàng hoàng.Trên tiệc, đám ca múa toàn là súng gươm,Trong tro, lâu đài ngổn ngang lớn nhỏ.Quạ kêu, mây lạnh kéo đến giữa ban ngày,Ngựa hí, cỏ thu chìm vào hoàng hôn.Gái đẹp trong thôn sau loạn không ai còn nhan sắc,Vì sợ sài lang nên một nửa làng đóng chặt cửa.
Phiên âm Hán-Việt:Viễn vọng hữu hoàiKhách lộ phong trần cận bạch đầu,Bi sầu nan thượng Trọng Tuyên lâu.Vân niêm vãn thụ thiên sơn trụng,Vũ tẩy hàn sa bán thủy phù.Quan tái chinh sầu văn lạc địch,Càn khôn độc lập vọng quy chu.Thập niên cố quốc Mai hoa tự,Mộng lý mô hồ mịch cựu du.Dịch nghĩa:Nhìn ra xa, cảm hoàiTrải gió bụi ở đất khách, đã gần bạc đầu,Buồn thương khó nỗi lên lầu Trọng Tuyên.Mây giăng, cây chiều dày trên ngàn núi,Mưa rửa, cát lạnh lửng lơ trên dòng nước.Đang lúc sầu nơi quan ải, nghe tiếng sáo rụng,Một mình giữa đất trời, ngóng bóng thuyền về.Mười năm nhớ nhung chùa Hoa mai nơi quê cũ,Trong giấc một mịt mờ tìm kiếm những bạn chơi xưa.